Thứ Tư, 7 tháng 12, 2016

Giới thiệu với bạn về: "Ngựa ô” Philippines

Ngay như dược phẩm, bà Vũ Thị Thuận, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Traphaco, từng chia sẻ, dược là lĩnh vực luôn được các doanh nghiệp ngoại chú ý, họ có thể đầu tư nhà máy khi đã xây dựng được kênh phân phối hoặc thông qua hình thức mua cổ phần của các công ty trong nước để dần biến đối tác thành đơn vị phân phối sản phẩm cho mình nhằm chinh phục thị trường có quy mô lớn như Việt Nam.
URC: Ẩn số trong thị trường F&B
Dù chậm chân ở Việt Nam nhưng URC nhanh chóng trở thành đối thủ cạnh tranh trong nước trà xanh, bánh, nước tăng lực... cạnh tranh trực tiếp với Coca-Cola hay Tân Hiệp Phát.
Tháng 4/2006, thị trường nước trà xanh đóng chai (RTD Tea) của Việt Nam đón thêm một đối thủ mới, Tập đoàn Universal Robina Corporation (URC) với trà xanh C2. Việt Nam đồng thời là thị trường đầu tiên, bên ngoài Philippines mà một trong những tập đoàn tư nhân lâu đời nhất Philippines (gần 60 năm) đặt cơ sở sản xuất lẫn thương mại.
Trước khi vào Việt Nam, C2 đã "làm mưa làm gió” tại thị trường Philippines khi giới thiệu sản phẩm vào tháng 10/2004, dù chậm hơn nhưng C2 đã trở thành đối thủ cạnh tranh cùa hai ông lớn Coke và PepsiCo. Chỉ sau 3 năm, sản phẩm này đã vươn lên dẫn đầu thị trường trong ngành đồ uống tại Philippines, vị trí này được duy trì cho đến hiện nay, trong khi mảng sản xuất mì gói đứng thứ hai và thứ ba về cà phê.

Báo cáo tài chính 2009 của URC chỉ rõ, doanh thu từ các thị trường BCFG International chiếm 22,9% trong tổng doanh thu của Tập đoàn, đạt 240 triệu USD, tăng 11,7% so với 2008.Ở Việt Nam, có thể thấy, năm 2005, 90% doanh thu từ thị trường ngoại (nhóm Branded Consumer Foods Group International, gọi tắt là BCFG International) của URC chủ yếu đến từ Thái Lan, Indonesia và Malaysia. Nhưng, tình thế đã dần đảo ngược.
Trong đó, nhờ vào mức tăng trưởng của trà xanh C2, URC Việt Nam đạt doanh thu 65 triệu USD, chỉ đứng sau Thái Lan ở mức 96 triệu USD. Cũng trong năm này, URC cho biết đã vươn lên dẫn đầu thị phần (sản phẩm RTD Tea) tại TP.HCM.
Sự xuất hiện của C2 khiến thị trường trà xanh đóng chai thêm phần cạnh tranh, bởi phân khúc này vốn thuộc về Tân Hiệp Phát (chiếm trên 60% thị phần), đi tiên phong với sản phẩm trà xanh Không Độ. Tuy nhiên, từ năm 2011 đến nay, thị trường đã có nhiều thay đồi với sự thâm nhập của nhiều nhà sản xuất khác nên đã có sự phân chia lại thị phần.
Theo thống kê của Euromonitor International về thị trường RTD Tea năm 2013, doanh thu bán lẻ vẫn tăng cao hơn 2012, với mức 20%, Tân Hiệp Phát vẫn dẫn đầu về thị phần bán sỉ với 41% hai sản phẩm chính là trà xanh Không Độ và Dr. Thanh.
Đứng thứ hai là URC với sản phẩm C2. Ngoài ra, nếu chỉ tính ở các thành phố lớn, tháng 10/2013, C2 vươn lên dẫn đầu thị trường, đồng thời nằm trong Top 5 nhà sản xuất đồ uống và có tốc độ phát triển nhanh nhất tại Việt Nam.
Vấn đề là vì sao C2 có thể chia lại thị phần? Vấn đề này được các chuyên gia marketing phân tích là do kết hợp giữa yếu tố giá cạnh tranh và độ phủ về truyền thông, trong đó có sự hỗ trợ ngân sách lẫn chiến dịch trên quy mô lớn ở phạm vi khu vực ASEAN từ công ty mẹ.
Ở Việt Nam, C2 có giá bản rẻ hơn Real Leaf của Coca-Cola 3%, xấp xỉ với Lipton Pure Green; đó là chưa nói đến hệ thống phân phối rộng khắp 63 tỉnh-thành với con số hơn 3 triệu điểm bán lẻ.
Trả lời báo chí, ông Edwin Robles Canta, Tổng giám đốc Công ty TNHH URC Việt Nam cho rằng, trong vòng 7 năm (từ 2006 - 2012), tốc độ tăng trưởng (cộng dồn hằng năm) của URC Việt Nam là 300%!
Hơn nữa, nhìn lại kết quả kinh doanh năm 2013, ban điều hành của URC nhìn nhận: "Việt Nam là thị trường trẻ nhất của URC nhưng lại có doanh số bán hàng lớn nhất với tốc độ tăng trưởng hai con số”. Sự phát triển của URC Việt Nam còn được chứng minh qua việc mở rộng sản xuất và danh mục sản phẩm.
Nếu năm 2005, tại thị trường Việt Nam chỉ có sản phẩm snack SeaCruch và kẹo Dynamite thì đến năm 2007, URC Việt Nam bắt đầu sản xuất bánh, snack, nay có thêm nước tăng lực Rồng Đỏ...
Ngoài ra, vào tháng 9/2013, URC Việt Nam đã mở rộng đầu tư thêm 35 triệu USD để phát triển nhà máy mới ở KCN VSIP ở Quảng Ngãi. Nhà máy này chủ yếu sản xuất khoai tây chiên Jack n Jill - cùng với C2, đây là thương hiệu mà URC mong muốn tạo dựng ở thị trường ASEAN.
Âm thầm gom hàng
Không chỉ đầu tư vào lĩnh vực có mức độ hấp dẫn cao như F&B, các doanh nghiệp Philippines còn âm thầm đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng và bất động sản tại thị trường Việt Nam.
Đại diện Ayala Corporation, tập đoàn tư nhân lớn và lâu đời nhất Philippines, với tổng tài sản lên tới 8,5 tỷ USD, bày tỏ quan điểm, muốn kết hợp với các doanh nghiệp chủ lực trong lĩnh vực hạ tầng của TP.HCM như: Công ty Đầu tư tài chính Nhà nước TP.HCM (HFIC), Công ty CP Đầu tư Hạ tầng Kỹ thuật TP.HCM (CII) để phát triển hạ tầng cho thành phố.
Chuyên hoạt động trong các lĩnh vực bất động sản, cung cấp - nước sạch, tài chính ngân hàng và viễn thông tại Philippines, tháng 5/2012, Ayala đã mua 10% cổ phần của CII.
Đồng thời, vào tháng 11/2011, thông qua công ty con là Manila Water, Ayala đã mua lại 49% cổ phần của CII tại Công ty BOO nước Thủ Đức sau 8 tháng tìm hiểu và thực hiện các thủ tục về pháp lý, thẩm định (thông qua một đơn vị tư vấn ở Việt Nam).
Thêm nữa, đến tháng 7/2012, Ayala đã mua lại hơn 47% cổ phần của Công ty CP cấp nước Kênh Đông, trong đó CII chiếm 36% vốn điều lệ. Cũng trong lĩnh vực nước sạch, Manila Water hiện là nhà thầu của Sawaco trong dự án giảm thất thoát nước cho vùng 1 của TP.HCM.
Nhìn vào báo cáo kết quả kinh doanh của Manila Water, có thể thấy, hầu hết các khoản đầu tư của công ty này vào lĩnh vực nước tại Việt Nam đều cho kết quả khả quan. Cụ thể, năm 2013, doanh thu của Nhà máy Nước BOO Thủ Đức đạt hơn 360 tỷ đồng và lợi nhuận ròng đạt 240,5 tỷ; tăng 115% so với 2012.
Trong khi đó, Nhà máy Nước Kênh Đông cũng lần lượt đạt doanh thu và lợi nhuận là 200 tỷ đồng và 79,9 tỷ. Nước là lĩnh vực mà Ayala đã có kinh nghiệm ở Philippines vì họ phát triển các nhà máy và hệ thống phân phối, cung cấp nước cho hơn 6 triệu dân ở Manila; trong khi ở TP.HCM, nhu cầu về nước sạch và quy mô dân số cũng gần giống với Manila nên đây là khoản đầu tư có mức sinh lời ổn định cho Ayala, một chuyên gia đầu tư nhìn nhận.
Trong khi đó, ở lĩnh vực dược phẩm, một công ty gia đình khác của Philippines là United International Pharma (UIP) đã nhanh chóng bước vào thị trường nhiều tiềm năng như Việt Nam.
Với những dự báo lạc quan về nhu cầu của người tiêu dùng bản địa, đầu năm 2012, UIP đã khánh thành nhà máy dược phẩm (đặt tại KCN VSIP II, Bình Dương, với nhiều sản phẩm tân dược như Decolgen, Alaxan, Enervon...) với giá giá trị đầu tư lên đến 40 triệu USD.
Đây được xem là nhà máy dược phẩm đầu tiên tại Việt Nam đạt chuẩn PICs-GMP (Công ước về thanh tra dược và Chương trình hợp tác thanh tra trong lĩnh vực thực hành tốt sản xuất thuốc, tiêu chuẩn được 41 công ty châu Âu và châu Mỹ tuân theo).
Theo kế hoạch được đại diện UIP chia sẻ, 80% sản phẩm sản xuất của nhà máy sẽ được tiêu thụ nội địa và 20% dành cho xuất khẩu. Đồng thời, doanh thu dự kiến của nhà máy này đến năm 2022 có thể đạt 300 triệu USD. Đây là nhà máy thứ hai mà UIP đầu tư tại Việt Nam, trước đó, họ đã đầu tư 6 triệu USD xây nhà máy tại TP.HCM.
Rõ ràng, dược phẩm là mảng có sức hút khá lớn với doanh nghiệp ngoại, vì theo đánh giá của Pacific Bridge Medical, một công ty tư vấn có trụ sở tại Mỹ, doanh số của thị trường dược phẩm Việt Nam năm 2012 là gần 3 tỷ USD - bằng một phần ba thị trường Ấn Độ.
Thị trường Việt Nam được dự báo sẽ tăng trưởng với tỷ lệ hơn 20% vào năm 2017. Mặt khác, Business Monitor International cho rằng, Việt Nam đứng thứ 13/175 nước về tốc độ tăng trưởng mức chi tiêu cho dược phẩm. Điều này cho thấy, dư địa phát triển của ngành vẫn còn khá lớn.
Nhỏ nhưng chắc
Theo số liệu từ Cục Đầu tư Nước ngoài, lũy kế đến tháng 6/2014, Philippines đứng thứ 29 (trên Ấn Độ) trong số 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam (đứng thứ 11 trong số các quốc gia châu Á đầu tư vào Việt Nam) với 65 dự án và tổng vốn đầu tư 284,86 triệu USD.
Nếu nhìn vào khối lượng đầu tư của các công ty Philippines vào Việt Nam có thể thấy, con số vẫn còn khiêm tốn nhưng đa phần họ chọn những ngành tiêu dùng phổ biến hoặc phục vụ cho nhu cầu số đông.
Ngay như dược phẩm, bà Vũ Thị Thuận, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Traphaco, từng chia sẻ, dược là lĩnh vực luôn được các doanh nghiệp ngoại chú ý, họ có thể đầu tư nhà máy khi đã xây dựng được kênh phân phối hoặc thông qua hình thức mua cổ phần của các công ty trong nước để dần biến đối tác thành đơn vị phân phối sản phẩm cho mình nhằm chinh phục thị trường có quy mô lớn như Việt Nam.
Trong khi đó, ở lĩnh vực F&B, hiện vẫn được nhà đầu tư đánh giá cao. Theo ông Lê Minh Thắng, Giám đốc Dịch vụ Tư vấn Grant Thorton Việt Nam, mặc dù đứng ở ví trí thứ hai trong bảng xếp hạng các lĩnh vực hấp dẫn, thực phẩm và đồ uống tiếp tục thu hút các nhà đầu tư, với 36% ý kiến, tăng trưởng nhẹ so với 34% của lần khảo sát trước.
Kết quả này một lần nữa nhấn mạnh sự hấp dẫn của lĩnh vực này đối với nhà đầu tư do nhu cầu tiêu dùng vẫn được duy trì mạnh mẽ với 90 triệu người tiêu dùng trong nước, cũng như tiềm năng xuất khẩu trong khu vực.
Điển hình như URC, việc tái đầu tư tại thị trường Việt Nam, được Công ty khẳng định là để đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng ở các thành phố lớn, cụ thể là Hà Nội, TP.HCM và trong tương lai là để đón đầu thị trường khu vực ASEAN mở cửa hoàn toàn vào năm 2015.
Theo đánh giá của các nhà đầu tư Philippines, TP.HCM gần gũi với Philippines là điểm đến thuận lợi cho các nhà đầu tư Philippines. Hiện nay, những lĩnh vực mà doanh nghiệp Philippines muốn đầu tư vào Việt Nam là du lịch, bán lẻ, y tế, công nghệ thông tin. 

Chia sẻ tin vui: Bancassurance tăng theo chiều thẳng đứng

Không chỉ riêng Prudential, giữa tháng 5/2014, AIA Việt Nam cũng công bố hợp tác chiến lược bancassurance trong thời hạn 15 năm với Citibank Việt Nam. Thỏa thuận này nằm trong phạm vi thỏa thuận giữa Tập đoàn AIA và NH Citibank, có hiệu lực tại thị trường khu vực châu Á - Thái Bình Dương.Trước Standard Chartered, Prudential cũng đã hợp tác với NH Hong Leong Bank, Techcombank, Eximbank, NH Hàng Hải Việt Nam, Argribank, An Bình... khai thác kênh bán bảo hiểm này.
Chiến lược dài hạn
Bancassurance là hình thức khai thác bảo hiểm ít tốn kém nên được các doanh nghiệp quan tâm. Điều đáng nói là không chỉ hợp tác trong vòng vài năm, các doanh nghiệp bảo hiểm và ngân hàng (NH) đã tính đến chiến lược dài hơi. Bằng chứng là mới đây, Prudential Việt Nam đã ký kết hợp tác chiến lược để Standard Chartered phân phối độc quyền các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ của Prudential tại thị trường Việt Nam.
Mối quan hệ giữa Prudential và Standard Chartered không phải mới bắt đầu mà đã có từ năm 2009, và thỏa thuận lần này nhằm mở rộng sự hợp

Không chỉ riêng Prudential, giữa tháng 5/2014, AIA Việt Nam cũng công bố hợp tác chiến lược bancassurance trong thời hạn 15 năm với Citibank Việt Nam. Thỏa thuận này nằm trong phạm vi thỏa thuận giữa Tập đoàn AIA và NH Citibank, có hiệu lực tại thị trường khu vực châu Á - Thái Bình Dương.Trước Standard Chartered, Prudential cũng đã hợp tác với NH Hong Leong Bank, Techcombank, Eximbank, NH Hàng Hải Việt Nam, Argribank, An Bình... khai thác kênh bán bảo hiểm này.
Việt Nam là một trong những thị trường mà tất cả các chi nhánh của Citibank sẽ phân phối độc quyền các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ của AIA Việt Nam.
Ông Stephen Clark, Tổng giám đốc Công ty AIA Việt Nam, tin rằng, liên minh chiến lược này được xây dựng dựa trên nền tảng về sự dẫn đầu trong lĩnh vực kinh doanh, sức mạnh bổ trợ và năng lực phân phối sản phẩm bảo hiểm qua kênh NH đã được thiết lập của cả hai bên đối tác là Tập đoàn AIA và Citibank trên phạm vi toàn khu vực.
Tại Việt Nam, sự hợp tác này sẽ giúp định vị quan hệ hợp tác qua NH với cam kết lâu dài và toàn diện giữa các NH và công ty bảo hiểm. Không những thế, việc này còn giúp AIA Việt Nam đa dạng hóa các kênh phân phối.
Bên cạnh hệ thống đại lý chuyên nghiệp, kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm qua NH là một trọng tâm phát triển mới của AIA Việt Nam. Khách hàng của Citibank sẽ nhận được các giá trị vượt trội khi lựa chọn sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đa dạng của AIA và được phục vụ bởi mạng lưới bán lẻ rộng lớn của Citibank.
Xu thế tất yếu
Theo các chuyên gia, bancassurance sẽ trở thành xu thế tất yếu và các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm sẽ đẩy mạnh khai thác. Hiện, đã có AIA Việt Nam, Prudential Việt Nam và Manulife Việt Nam khai thác kênh này.
Tại châu Á, bancassurance chiếm 60% tổng doanh thu ngành bảo hiểm nhân thọ trong khi tỷ lệ này tại Việt Nam rất thấp. Năm 2013, doanh thu từ kênh này chiếm 3% tổng doanh thu toàn ngành.
Cùng quan điểm này, ông Stephen Clark cho rằng, mặc dù tình hình kinh doanh vẫn ghi nhận những kết quả khả quan trong thời gian qua nhưng mức đóng góp của kênh phân phối này vào tổng doanh thu của toàn ngành vẫn còn tương đối thấp.
Hệ thống đại lý bảo hiểm nhân thọ vẫn là lực lượng đóng góp chủ yếu trong việc khai thác các hợp đồng bảo hiểm mới. Tuy nhiên, điều này sẽ thay đổi, đặc biệt đối với số đông khách hàng NH đang ngày càng trở nên quen thuộc với phương thức mà bảo hiểm có thể kết hợp bổ sung với các giao dịch cùng sản phẩm NH.
Ngoài ra, sự liên tục tái cơ cấu và củng cố sức mạnh tài chính của các NH cũng đang gia tăng thêm niềm tin của khách hàng vào hệ thống NH hiện nay. Những yếu tố này chắc chắn sẽ mang lại tác động tích cực về sự phát triển của kênh phân phối bancassurance tại Việt Nam.
"Dù tham gia bảo hiểm nhân thọ với mục đích tiết kiệm hoặc bảo vệ thì các khách hàng cũng dành ưu tiên cho những kế hoạch tài chính cá nhân. Hiện nay, người tiêu dùng Việt Nam đang ngày càng có ý thức và tích cực tìm kiếm thông tin về các giải pháp bảo hiểm có thể thay đổi phù hợp với những yêu cầu về kế hoạch tài chính của họ”, ông Stephen Clark nói.
Cũng theo Stephen Clark, hiện nay, các NH luôn được trang bị đầy đủ để cung cấp dịch vụ quan trọng này cho khách hàng. Bằng cách hướng khách hàng tiếp cận sự đa dạng của các sản phẩm tài chính trên thị trường, bao gồm cả bảo hiểm, các NH đang dần hướng tới mục tiêu trở thành nhà phân phối chủ yếu các giải pháp bảo hiểm nhân thọ cho khách hàng, đặc biệt là cho các khách hàng thuộc tầng lớp trung lưu trở lên.
Vì lý do này, gần đây AIA đã ký thỏa thuận hợp tác chiến lược với Citibank. "Chúng tôi tin rằng sự hợp tác giữa hai tập đoàn lớn trong ngành NH và bảo hiểm chắc chắn sẽ cung cấp cho các khách hàng Việt Nam những cơ hội được tư vấn và lựa chọn những giải pháp tài chính sáng tạo một cách đơn giản và nhanh chóng. Mối quan hệ hợp tác này sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho khách hàng nhận được những giải pháp tài chính có ý nghĩa và hữu ích", ông Stephen Clark tin tưởng.
Mặc dù có thị phần nhỏ nhưng mức tăng trưởng của ngành này đang ở chiều thẳng đứng. Năm 2013, bancassurance có mức tăng trưởng đến 92%. Sáu tháng đầu năm 2014, doanh thu từ kênh này đã tăng 120%. Kết quả kinh doanh quý I/2014 của Manulife cũng cho thấy điều đó.
Cụ thể, doanh thu khai thác mới từ bancassurance tăng 35% so với cùng kỳ năm trước. Năm 2013, doanh thu khai thác mới từ kênh bán hàng qua NH của Manulife Việt Nam tăng 329% so với năm 2012. Chính sự tăng trưởng của kênh này khiến Manulife Việt Nam chọn bancassurance là một trong những chiến lược của Công ty trong thời gian tới.
Chắc chắn, bancassurance sẽ phát triển mạnh mẽ trong tương lai vì đây là kênh khai thác ít tốn phí.

Giới thiệu với bạn hình thức thanh toán điện tử: 105 triệu thuê bao tiềm năng

Theo ước tính của các chuyên gia, hiện Việt Nam có khoảng 10 triệu khách hàng sử dụng VĐT của 10 nhà cung cấp dịch vụ VĐT trên nền internet và thiết bị di động như nganluong.vn của Công ty Ngân Lượng, Payoo của Công ty VietUnion, MoMo của Công ty M_Scrvice, Netcash của Paynet, Vcash của VinaPay, VnMart của Vnpay, Smartlink của Công ty CP dịch vụ thẻ Smartlink... Năm 2009, khi NHNN cấp phép thí điểm dịch vụ VĐT thì chỉ trong vòng 1 năm sau đó đã có khoảng 70.000 VĐT được mở.
Ví điện tử đang được DN đẩy mạnh đầu tư
Tiềm năng lớn
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) vừa cấp phép cho Công ty CP Dịch vụ Di động Trực tuyến M_Scrvice cung cấp dịch vụ chuyển tiền di động MoMo. Dịch vụ này được thực hiện nhờ sự phối hợp với Vietcombank và VinaPhone. Thông qua điện thoại di động, người sử dụng VĐT MoMo có thể chuyển tiền tự động, thanh toán hóa đơn tiền điện, nước, viễn thông, mua thẻ chơi game...
Khi tài khoản ngân hàng nối với MoMo, tại các khu vực không có máy rút tiền ATM, khách hàng có thể đến hơn 2.000 điểm giao dịch MoMo để rút tiền. Ông Nguyễn Bá Diệp, Tổng giám đốc Công ty CP Dịch vụ Di động Trực tuyến M_Scrvice, cho rằng, chính sự kết hợp giữa viễn thông, ngân hàng và dịch vụ di động trực tuyến tạo điều kiện cho những người thu nhập thấp, người lao động tiếp cận các dịch vụ tài chính với chi phí thấp nhất.
Trước MoMo, Payoo của Công ty CP Dịch vụ Trực tuyến Cộng đồng Việt (VietUnion) cũng đã thực hiện các dịch vụ thanh toán hóa đơn khá đa dạng với hơn 30 nhà cung cấp điện, nước, điện thoại, truyền hình, internet... Payoo cũng đã kết nối với nhiều ngân hàng, đáp ứng nhu cầu thanh toán của hơn 95% chủ thẻ, tài khoản tại Việt Nam.
Theo đại diện của Payoo, giao dịch VĐT đem lại rất nhiều lợi ích cho người tiêu dùng vì xóa bỏ khá nhiều khâu trung gian như đi lại, ký giấy tờ, rút tiền mặt... đồng thời đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng.
Theo ước tính của các chuyên gia, hiện Việt Nam có khoảng 10 triệu khách hàng sử dụng VĐT của 10 nhà cung cấp dịch vụ VĐT trên nền internet và thiết bị di động như nganluong.vn của Công ty Ngân Lượng, Payoo của Công ty VietUnion, MoMo của Công ty M_Scrvice, Netcash của Paynet, Vcash của VinaPay, VnMart của Vnpay, Smartlink của Công ty CP dịch vụ thẻ Smartlink... Năm 2009, khi NHNN cấp phép thí điểm dịch vụ VĐT thì chỉ trong vòng 1 năm sau đó đã có khoảng 70.000 VĐT được mở.
Ông Ngô Trung Lĩnh, Tổng giám đốc Công ty CP Dịch vụ Trực tuyến Cộng đồng Việt (VietUnion), cho rằng, VĐT là lĩnh vực được kỳ vọng mang lại lợi nhuận lớn, rất tiềm năng đối với các DN và các nhà đầu tư.
Những năm đầu hoạt động, Payoo chú trọng phát triển mảng dịch vụ trong lĩnh vực thương mại điện tử, nhưng do tốc độ phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam còn khá chậm nên hiệu quả chưa được như kỳ vọng.
Trong khi chờ thị trường thương mại điện tử có những chuyển biến tích cực hơn, từ cuối năm 2011, Payoo tập trung đầu tư phát triển mảng dịch vụ thanh toán hóa đơn, tạo ra nhiều tiện ích cho người dùng nên đã nhận được sự hưởng ứng từ khách hàng. Trong gần 3 năm qua, số lượng giao dịch qua Payoo tăng nhanh, năm sau tăng 5-7 lần so với năm trước đó.
Chưa tương xứng
Theo ông Nguyễn Đức Hưng, phụ trách tiếp thị và kinh doanh Trung tâm Dịch vụ giá trị gia tăng (VAS) của VinaPhone, chuyển tiền di động đang là dịch vụ được các nhà mạng, tổ chức tài chính đầu tư mạnh mẽ. Khi nhà mạng đã sở hữu một lượng thuê bao nhất định có thói quen thanh toán trực tuyến thì nguồn thu mang lại sẽ không nhỏ.
Dù VĐT đang được các doanh nghiệp đầu tư nhưng các chuyên gia cho rằng, sự phát triển của lĩnh vực này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Số liệu thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông cho thấy, tính đến tháng 12/2013, Việt Nam có khoảng 105 triệu thuê bao điện thoại, 93% trong số này là thuê bao di động.
Bên cạnh đó, mạng 3G đã phủ sóng rộng khắp với gần 20 triệu thuê bao di động. Đây chính là tiềm năng để VĐT phát triển. Thế nhưng, hiện nay, mới chỉ có 22% dân số Việt Nam tiếp cận các dịch vụ tài chính và việc giao dịch thông qua VĐT càng ít.
Đã vậy, số người đã sử dụng dịch vụ này chủ yếu ở các thành phố lớn nên mục tiêu phục vụ những người khó có điều kiện tiếp cận với các dịch ngân hàng của VĐT chưa thực hiện được.
Theo chia sẻ của ông Lĩnh, năm 2008, khi NHNN cấp phép thử nghiệm cho những đơn vị phi ngân hàng cung cấp dịch vụ VĐT, số lượng người sử dụng VĐT tăng nhanh hằng năm và số lượng sản phẩm, dịch vụ chấp nhận kênh thanh toán này cũng tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, nếu so sánh với tiềm năng của Việt Nam thì vẫn còn rất khiêm tốn.
Một trong những lý do khiến thị trường VĐT chưa đạt được những con số mong muốn là do thói quen tiêu dùng của người Việt. Thêm vào đó, gần đây, thông tin về những sự cố và rủi ro khi thanh toán trực tuyến cũng làm cho người dùng có phần e dè hơn.
Tuy nhiên, trong thời gian tới, "với chính sách khuyến khích không sử dụng tiền mặt của NHNN, sự nỗ lực của các doanh nghiệp và sự thay đổi thói quen tiêu dùng của người dân, thương mại điện tử Việt Nam sẽ có những bước tiến mạnh mẽ kéo theo sự phát triển mạnh của VĐT. Khi đó, việc có được thương hiệu nổi tiếng về VĐT là hoàn toàn có thể”, ông Lĩnh nói.

Chia sẻ cùng bạn câu chuyện: Xuất khẩu thủy sản, tôm vui để buồn cho cá

Nhìn rộng hơn, ông Dương Ngọc Minh, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty Hùng Vương chỉ ra, cá tra đang bị cạnh tranh bởi các "đối thủ” như giống cá alaska pollock. Cùng đó, cá tra không còn là sản phẩm độc quyền của Việt Nam nữa. Hiện nay, Indonesia đang bắt đầu phát triển giống cá này, còn Ấn Độ hằng năm sản xuất khoảng 500.000 tấn.
Cá tra hẹp đường
Theo thống kê của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, giá trị xuất khẩu thủy sản 6 tháng đầu năm ước đạt 3,45 tỷ USD, tăng 24,2% so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó, riêng xuất khẩu tôm các loại đạt khoảng 1,7 tỷ USD, tăng 54,5% so với cùng kỳ Với đà tăng trưởng mạnh mẽ này, top 5 DN xuất khẩu thủy sản lớn nhất đều là DN ngành tôm.
Minh Phú (MPC) tiếp tục dẫn đầu với kim ngạch xuất khẩu đạt 300 triệu USD, tương đương 55% kế hoạch năm. Đặc biệt, bước sang quý II, Minh Phú Hậu Giang đã thăng hạng, từ vị trí thứ 6 cuối năm 2013 lên vị trí thứ ba, chỉ sau Minh Phú (MPC) và Stapimex trong nhóm DN xuất khẩu thủy sản lớn nhất ngành.
Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), một trong những yếu tố thành công của ngành sản xuất tôm là nguồn cung tôm trên thế giới giảm do dịch bệnh tôm chết sớm (EMS). Thêm vào đó, giá tôm trên thị trường thế giới tăng mạnh, nhu cầu nhập khẩu tôm tăng cao là những yếu tố chính giúp xuất khẩu tôm của Việt Nam đạt kết quả khả quan.
Thực tế, tình hình xuất khẩu tôm vào các thị trường lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, nhiều nước châu Âu đều rất khả quan. Ở thị trường châu Âu, Việt Nam chỉ đứng sau Ấn Độ và Ecuador trong cung cấp tôm. Ở thị trường Mỹ, Việt Nam hiện là nhà cung cấp tôm lớn thứ tư với giá trị xuất khẩu chiếm 30,4% tổng giá trị xuất khẩu tôm cả nước.
Trong khi đó, tại nhóm ngành cá tra - cá basa, nếu loại trừ tỷ lệ sở hữu của Hùng Vương (HVG) tại Agrifish (AGF) thì Vĩnh Hoàn (VHC) mới là DN xuất khẩu lớn nhất hiện nay.
Tuy nhiên, do xuất khẩu toàn ngành cá tra 6 tháng 2014 chỉ đạt 546,2 triệu USD, tăng nhẹ 2,1% nên giá trị xuất khẩu của VHC tính ra chưa bằng một nửa so với MPC. Giới chủ nhóm DN xuất khẩu cá tra xác nhận, việc giảm giá xuất khẩu đã ít nhiều ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của các DN.
Ông Ngô Phước Hậu, Chủ tịch HĐQT của Agrifish, cho biết, so với con tôm, số phận con cá tra nhọc nhằn hơn rất nhiều. Do liên tục bị thua lỗ, diện tích thả nuôi trong dân dần bị thu hẹp. Ước tính có khoảng 70% người nuôi cá độc lập đã ngừng sản xuất trong 2 năm qua.
Cạnh tranh trong ngành xuất khẩu cá tra lại gay gắt, thiếu lành mạnh với 160 công ty cùng hoạt động, đẩy giá cá tra - cá ba sa liên tục rớt giá. Cá tra lại bị kiểm tra chất lượng nhiều hơn bất kỳ loài cá nào với khoảng 27 thông số mới được thanh tra các nước châu Âu chấp nhận.
Dù vậy, nhiều nhà nhập khẩu châu Âu chỉ muốn tìm cách trả giá thấp đối với con cá tra và thực tế cá tra hiện rất ít chỗ đứng trên thị trường châu Âu, nhất là Bắc Âu. Riêng tại thị trường Mỹ, hằng năm, Bộ Thương mại Mỹ đều rà soát và áp thuế chống bán phá giá lên cá tra (POR).
Đặc biệt, thị trường Nga vẫn tiếp tục đóng chặt cửa đối với cá tra Việt Nam dù trước đó các chuyên gia dự báo thị trường này sẽ mở cửa trở lại chậm nhất vào cuối tháng 4/2014. Ông Trương Đình Hòe, Tổng thư ký VASEP, lo âu, không biết khi nào cá tra của Việt Nam mới có thể quay lại thị trường Nga.
Nhìn rộng hơn, ông Dương Ngọc Minh, Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty Hùng Vương chỉ ra, cá tra đang bị cạnh tranh bởi các "đối thủ” như giống cá alaska pollock. Cùng đó, cá tra không còn là sản phẩm độc quyền của Việt Nam nữa. Hiện nay, Indonesia đang bắt đầu phát triển giống cá này, còn Ấn Độ hằng năm sản xuất khoảng 500.000 tấn.
Trong bối cảnh nhiều khó khăn, theo ông Ngô Phước Hậu, việc các DN nỗ lực bám thị trường, đạt và vượt các chỉ tiêu doanh thu, xuất khẩu là rất có ý nghĩa. Tính đến cuối tháng 6/2014, AGF đạt 53 triệu USD kim ngạch xuất khẩu, hoàn thành 48% kế hoạch năm, doanh thu ước đạt 1.486 tỷ đồng, hoàn thành 49% chỉ tiêu.
Riêng Vĩnh Hoàn hiện là DN duy nhất được hưởng thuế chống bán phá giá 0 USD/kg. Với tỷ trọng thị trường Mỹ chiếm trên 50% giá trị xuất khẩu, dự kiến Vĩnh Hoàn không chỉ tăng doanh thu mà sẽ tăng trưởng lợi nhuận nhờ lợi thế này.
Xoay xở gỡ khó
Nhìn tổng thể, VASEP đánh giá, năm 2014 tiếp tục là một năm thắng lợi của ngành thủy sản nhưng sẽ chủ yếu dựa vào mặt hàng tôm. Ông Lê Văn Điệp, Phó tổng giám đốc Minh Phú, thừa nhận, mặt hàng tôm đang có những chuyển biến tích cực. Minh Phú có thể sẽ xem xét đến khả năng tăng kế hoạch kinh doanh năm 2014.
Trong khi đó, theo phân tích của Công ty Chứng khoán Vietcombank, triển vọng kinh doanh của các DN cá tra vẫn tương đối khả quan. Với các DN tự chủ về nguyên liệu trên 70% như Vĩnh Hoàn, Hùng Vương, Agrifish... giá vốn hàng bán và biên lợi nhuận gộp sẽ ở mức tương đối ổn định.
Các DN có thể chủ động đảm bảo chất lượng nuôi, tuân theo các tiêu chuẩn khắt khe của các thị trường nhập khẩu. Ngoài ra, còn có thể tăng mạnh kim ngạch xuất khẩu do những khoảng trống thị trường mà những DN đã phá sản để lại.
Mặc dù vậy, trước diễn biến giá cá tra sụt giảm, tăng trưởng lợi nhuận là điều DN ít mong đợi. Biên lợi nhuận của Vĩnh Hoàn đã giảm từ 5,8% năm 2012 xuống còn 3% năm 2013.
Tình trạng này cũng diễn ra tương tự ở các DN xuất khẩu cá tra. Vì thế, AGF dự tính sẽ tiếp tục phát triển thêm vùng nuôi cá, để để giảm chi phí sản xuất thêm 10- 20%, xây dựng lại danh mục hàng giá trị gia tăng để có ưu thế cạnh tranh hơn.
Một số DN như Hùng Vương, Vĩnh Hoàn từ lâu đã tính chuyện tìm kiếm thêm lợi nhuận từ những ngành khác. Hiện tại, Vĩnh Hoàn tập trung đầu tư gạo thơm và gạo đồ, hai loại gạo rất được ưa chuộng trên thị trường xuất khẩu. Mục tiêu của Vĩnh Hoàn trong năm 2014 đạt 550 tỷ đồng doanh thu và 5 tỷ đồng lợi nhuận sau thuế từ mảng xuất khẩu gạo.
VHC cũng đặt nhiều kỳ vọng vào nguồn thu từ nhà máy chiết xuất gelatin và collagen dự kiến sẽ đi vào hoạt động cuối năm nay. Từ chỗ công suất chỉ đạt khoảng 35% năm 2015, Vĩnh Hoàn dự kiến nâng công suất lên 55% năm 2016 và 80% năm 2017. Mảng collagen sẽ cho lợi nhuận từ năm 2015 và đến năm 2017, Vĩnh Hoàn có thể có 100 tỷ đồng lãi từ collagen.
Trong khi đó Hùng Vương cũng đang ấp ủ kế hoạch mở rộng sang lĩnh vực thương mại. Mục tiêu của Hùng Vương là trở thành DN xuất khẩu nhiều mặt hàng nông sản, tiêu dùng, tiểu thủ công nghiệp... sang phục vụ cộng đồng người Việt và châu Á sống ở Mỹ.

Thực trạng về thị trường game Việt Nam: Trò chơi 6.000 tỷ


Cái khó khi làm sản phẩm mobile game là dòng đời ngắn, trước khi đưa ra sản phẩm mẫu thì nhà sản xuất phải "cắt gọt" rất nhiều. Ngoài ra, còn phải quan tâm đến vấn đề sản phẩm có đủ lớn hay không, dịch vụ tốt không...Song, nhiều người tham gia, mức độ cạnh tranh sẽ lớn nên cái quan trọng là khi đưa ra thị trường, game có được tiếp nhận hay không. Theo thống kê tại hội thảo Phát triển ngành trò chơi trực tuyến - OGDC 3, khoảng 90% sản phẩm trò chơi trực tuyến không thành công ngay từ khâu sản xuất, 9% không thành công khi bước vào thị trường và chỉ còn 1% những trò chơi trực tuyến hay nhất (hoặc may mắn nhất) có thể sống sót và mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư.

Game PC: 80% từ Trung Quốc, Hàn Quốc
Dù doanh thu tăng trưởng cao nhưng thị trường game Việt Nam chủ yếu trong tay các nhà phát triển game ngoại.
Dự báo của Niko Partners cho thấy, năm 2017, doanh thu của ngành công nghiệp game Đông Nam Á (chủ yếu là Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam) tiến tới con số 1,7 tỷ USD. Chỉ mới phát triển trong khoảng 10 năm trở lại đây, doanh thu từ game của Việt Nam tăng 50 - 100% mỗi năm và số người chơi game xấp xỉ 20 triệu.
Năm vừa qua, doanh thu từ ngành này mang lại 237 triệu USD nhưng điều đáng nói là 80% trong số đó lại xuất phát từ các game ngoại (Trung Quốc, Hàn Quốc) do doanh nghiệp Việt Nam phát hành. Những game này chủ yếu cài đặt trên máy PC, có độ phức tạp cao và tại thị trường Việt Nam đã có sẵn lượng khách hàng nhất định.
Nếu nhìn nhận ở phân khúc game PC hay cosole (máy chơi game), đây rõ ràng không phải là sân chơi của các nhà phát triển game trong nước, kể các những công ty lớn như VNG, VTC hay FPT. Khoảng 90% game PC hiện nay là xuất xứ từ Trung Quốc.
Studio Game Emobi là nhà phát triển game nội địa dám thử sức với game 7554 (trận Điện Biên Phủ), đây được biết đến là trò chơi điện tử có cấu hình đồ họa mạnh đầu tiên sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, sau hơn 2 năm phát hành, 7554 chỉ phát hành được 5.000 bản và thu về 17 tỷ đồng, trong khi chi phí để sản xuất game này lên đến 1 triệu USD. Sự không thành công này của Emobi khiến nhiều nhà sản xuất khác trong nước e dè. Sau 7554, Emobi dự định sản xuất tiếp game Sát Thát nhưng không tìm được các nguồn đầu tư, đành phải dừng dự án.
Ông Dương Thế Lương, Giám đốc Công ty VTC Công nghệ và Nội dung số (VTC Intecom), cho rằng, 6 tháng qua, toàn thị trường game Việt Nam có khoảng 40 game cho PC và 60 game mobile ra mắt (con số này quá nhỏ bé so với 500.000 game trên thị trường Trung Quốc mỗi năm).
Tuy nhiên, xác suất thành công chỉ vào khoảng 10%. Nhưng thành công ở đây chỉ rất khiêm tốn. Sáu tháng đầu năm, VTC Intecom triển khai 4 game mobile và 1 game trên PC, nếu tính theo tiêu chí "không lỗ đã là thành công" thì VTC Intecom chỉ có được 1 game trên mobile và 1 game trên PC.
Nguyên nhân khiến cho các nhà phát triển game trong nước không thể tạo ra sản phẩm Việt hóa, theo ông Lê Hồng Minh, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng giám đốc Công ty CP VNG, là "do thiếu chi phí, nguồn lực và sự cạnh tranh áp đảo của game ngoại".
Ở đây, nguồn lực được xác định là nhân sự của ngành game, dù đây là bài toán được đặt ra từ nhiều năm nay nhưng hiện vẫn chưa thể giải quyết. Để giải quyết bài toán này, các doanh nghiệp phải "tự thân vận động".

Để mở rộng thị trường, nhiều nhà sản xuất game cũng đang tính đến chuyện phát hành ở nước ngoài. Điển hình như VNG, ông Tạ Nam Anh, Giám đốc Phát hành game mobile của VNG, cho biết, Công ty nhắm đến một số thị trường, tuy không lớn để đưa game của VNG vào.Về vấn đề này, ông Nguyễn Khánh Trung, Giám đốc Game Studio North, cho biết, Công ty đang kết hợp với một trường đại học ở Hà Nội thiết kế chương trình phát triển game (mỗi chương trình kéo dài trong 2 tháng) để bổ sung nhân sự cho ngành công nghiệp này.
Song, vấn đề khiến các nhà sản xuất trong nước lo ngại là chi phí vận hành cho một game phát hành ở nước ngoài khá tốn kém. 
Nếu ở mảng sản xuất game, các doanh nghiệp trong nước không có chỗ đứng thì ở mảng phát hành game, thị trường cũng không mấy dễ thở khi là nơi cạnh tranh của 4 "ông lớn": VNG, Garena, VTC và FPT.
Ngay như năm 2013, nguồn thu chủ đạo của VNG (vừa sản xuất vừa phát hành game) là phát hành game cũng gặp phải áp lực lớn. Cụ thể, mảng game cài đặt (client game) chịu sức ép lớn từ Công ty Garena với game Liên minh Huyền thoại. Hiện, Garena Việt Nam đang chiếm tới 70% thị phần phòng máy (phòng máy cài sẵn game của nhà phát hành).
Nếu doanh số ước đạt của ngành công nghiệp game Việt Nam năm 2014 là 6.000 tỷ đồng, thì DN trong nước chỉ chiếm 60% (kể cả sản xuất lẫn phát hành), còn 40% thuộc về các DN nước ngoài phát hành dịch vụ xuyên biên giới.
Game Mobile: Bay theo cánh chim Flappy Bird?
Chưa bao giờ ngành game mobile Việt Nam có tốc độ tăng trưởng mạnh như hiện nay. Năm 2014, doanh thu của thị trường game Việt Nam ước đạt khoảng 6.000 tỷ đồng, bằng với năm 2013, trong đó game mobile chiếm khoảng 1.000 tỷ đồng. Tiềm năng của game mobile sẽ tạo nên diện mạo mới của ngành công nghiệp game Việt Nam.
Tăng trưởng theo smartphone
Do chi phí để sản xuất game cài đặt trên PC khá cao nên các nhà phát triển game trong nước đang hướng đến sản xuất game chạy trên nền tảng iOS hoặc Android của smartphone. Cả nước hiện có khoảng 40 doanh nghiệp, studio tham gia sản xuất và phát hành game.
Các studio game của Việt Nam tập trung chủ yếu TP.HCM, Hà Nội, Đà Nẵng, có thể kế đến như: Colobox, Pine, Canvas Games Studio, Banana Studio..., có những studio game chỉ làm outsoursing (thuê ngoài) cho nhà sản xuất ngoại nhưng một số lại kiêm luôn vai trò sản xuất.
Nhìn vào bức tranh chung của ngành công nghiệp game thế giới, một nghiên cứu của Newzoo cho thấy, thị phần game mobile toàn cầu đang có xu hướng gia tăng. Cụ thể, trong năm 2013, game mobile chiếm 17,4% doanh thu (tương ứng 12,3 tỷ USD) và năm 2016, tỷ lệ này tăng 27,8% (khoảng 23 tỷ USD).
Riêng tại Việt Nam, từ thị trường không có gì, game chạy trên nền tảng iOS và Android của thiết bị smartphone ước tính đạt doanh thu 2 triệu USD/tháng trong năm 2012; 25,5 triệu USD vào năm 2013, nay dự báo đạt 35 triệu USD và đến năm 2016 là 52 triệu USD.
Thị trường mobile game của Việt Nam có tiềm năng để phát triển vì Việt Nam được đánh giá là thị trường có số người sử dụng internet lẫn sở hữu smartphone tăng nhanh chóng. Theo đó, Việt Nam đứng thứ hai thế giới về tốc độ tăng trưởng thiết bị smartphone với 17 triệu máy.
Năm 2014, doanh thu của thị trường game Việt Nam ước đạt khoảng 6.000 tỷ đồng, bằng với năm 2013, trong đó game mobile chiếm khoảng 1.000 tỷ đồng.
Gần đây, ngành công nghiệp game Việt Nam nổi lên với sự kiện Flappy Bird của Nguyễn Hà Đông (từng đứng đầu AppStore); đồng thời, Việt Nam cũng có một số game studio tạo ra các sản phẩm mobile game khá thành công như trường hợp DivMob, một trong những nhà phát triển game Việt đã viết hơn 10 game trên nền Android và iOS, thu hút hơn 20 triệu lượt tải về trên toàn cầu năm 2013.
Hay như SohaGame hợp tác với ZoyGame để phát triển Vua Thủ Thành từ tháng 4/2014 đến nay khá thành công. Hiện, SohaGame đang có 4 game mobile hợp tác với các game studio đưa ra thị trường.
Dễ làm, khó thắng
Nói về việc sản xuất game chơi trên smartphone, ông Lê Hồng Minh, VNG cho rằng, làm thì rất đơn giản nhưng không dễ để thành công. Còn ông Nguyễn Tiến Dũng, Giám đốc Điều hành ZoyGame, nhấn mạnh, lợi thế của mobile game là có nhiều nền tảng để phát triển nên đây là cơ hội dành cho nhiều đối tượng tham gia, có thể là doanh nghiệp lớn, có thể là studio game nhỏ hoặc thậm chí là cá nhân.

Cái khó khi làm sản phẩm mobile game là dòng đời ngắn, trước khi đưa ra sản phẩm mẫu thì nhà sản xuất phải "cắt gọt" rất nhiều. Ngoài ra, còn phải quan tâm đến vấn đề sản phẩm có đủ lớn hay không, dịch vụ tốt không...Song, nhiều người tham gia, mức độ cạnh tranh sẽ lớn nên cái quan trọng là khi đưa ra thị trường, game có được tiếp nhận hay không. Theo thống kê tại hội thảo Phát triển ngành trò chơi trực tuyến - OGDC 3, khoảng 90% sản phẩm trò chơi trực tuyến không thành công ngay từ khâu sản xuất, 9% không thành công khi bước vào thị trường và chỉ còn 1% những trò chơi trực tuyến hay nhất (hoặc may mắn nhất) có thể sống sót và mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư.
Mặt khác, theo ông Tạ Nam Anh, dù chi phí phát triển 1 game mobile không nhiều như PC game (một game trung bình phát triển trong 6 tháng, với studio game từ 8 - 10 người, chi phí bình quân để tạo ra sản phẩm ban đầu là trên 500 triệu đồng, chưa tính chi phí vận hành) nhưng quan trọng là nhà sản xuất có đủ lực để duy trì được sản phẩm đó lâu dài và có nhiều người chơi hay không.
Với mức chi phí này, đối với những game studio có quy mô nhỏ, nếu không gặt hái được thành công trong khoảng hai sản phẩm là có thể đứng trước nguy cơ... mất hút khỏi thị trường. Song, theo ông Lê Hồng Minh, "trong số 3 điều kiện để một game studio sống, thì tài chính không hẳn là vấn đề lớn, mà quan trọng là đam mê, kỹ năng và may mắn".
Đứng ở vai trò nhà đầu tư chiến lược, ông Nguyễn Mạnh Dũng, Trưởng đại diện Quỹ Đầu tư mạo hiểm CyberAgent Ventures (Nhật Bản) tại Việt Nam và Thái Lan, mobile game là xu hướng phát triển trong tương lai nhưng điều này không có nghĩa nó sẽ "khai tử" PC game, cũng giống như cách ví von giữa báo điện tử và báo in, nhiều người vẫn thích sự thoải mái và trải nghiệm trọn vẹn khi chơi game trên PC.
Được biết, năm 2011, quỹ này đã đầu tư một số tiền không nhỏ vào Colobox, một studio game chuyên phát triển các game di động (từng có game Rip Off đứng thứ 2 trên kho ứng dụng AppStore). Theo ông Dũng, sau hơn 2 năm rưỡi năm đầu tư vào Colobox, kết quả chưa được như kỳ vọng, vì hiện nay, thị trường game di động đang cạnh tranh khá quyết liệt giữa các nhà phát triển trong nước và nước ngoài.

Vì sao có chuyện xuất xứ địa lý nước mắm Phú Quốc: Được bảo hộ vẫn lo


Theo bà Nguyễn Thị Tịnh, Chủ tịch Hội Nước mắm Phú Quốc, mặc dù nước mắm Phú Quốc đã được trao chứng nhận tên gọi xuất xứ "Phú Quốc" được bảo hộ CDĐL trên lãnh thổ 28 nước thành viên EU nhưng tình trạng nước mắm Phú Quốc với "made in Thailan", "made in Hongkong" vẫn đang tồn tại tại đây, cạnh tranh với hàng Phú Quốc chính hiệu.Thế nhưng, điều đáng buồn là sau hơn một năm được bảo hộ, nước mắm Phú Quốc vẫn đang gặp khó tại thị trường này. Tại các nước châu Âu, nước mắm nhái Phú Quốc đến từ Thái Lan, Hồng Kông đang hiện diện trong nhiều siêu thị của EU.

Thương hiệu nước mắm Phú Quốc sẽ tiếp tục được quảng bá tại thị trường EU
Bảo hộ vẫn lo
Năm 2001, nước mắm Phú Quốc được bảo hộ chỉ dẫn địa lý (CDĐL) trong nước. Tháng 10/2012, nước mắm Phú Quốc tiếp tục được bảo hộ về CDĐL tại châu Âu. Đây là sản phẩm đầu tiên của nước ta được bảo hộ tại châu Âu, đưa Việt Nam trở thành một trong 5 quốc gia ngoài châu Âu có sản phẩm được bảo hộ CDĐL tại thị trường này.
Theo ông Simon Morton, Ban Hợp tác và Phát triển Phái đoàn EU tại Việt Nam, khi nước mắm Phú Quốc được bảo hộ tên gọi địa lý tại châu Âu, các loại nước mắm sản xuất và đóng chai ở nơi khác sẽ không được kinh doanh, buôn bán tại thị trường này với tên gọi nước mắm Phú Quốc. Đây là cơ hội để DN Việt Nam gia tăng sản lượng nước mắm xuất khẩu vào thị trường châu Âu.

Theo bà Nguyễn Thị Tịnh, Chủ tịch Hội Nước mắm Phú Quốc, mặc dù nước mắm Phú Quốc đã được trao chứng nhận tên gọi xuất xứ "Phú Quốc" được bảo hộ CDĐL trên lãnh thổ 28 nước thành viên EU nhưng tình trạng nước mắm Phú Quốc với "made in Thailan", "made in Hongkong" vẫn đang tồn tại tại đây, cạnh tranh với hàng Phú Quốc chính hiệu.Thế nhưng, điều đáng buồn là sau hơn một năm được bảo hộ, nước mắm Phú Quốc vẫn đang gặp khó tại thị trường này. Tại các nước châu Âu, nước mắm nhái Phú Quốc đến từ Thái Lan, Hồng Kông đang hiện diện trong nhiều siêu thị của EU.
Mỗi năm, sản lượng nước mắm Phú Quốc đạt 20-25 triệu lít, nhưng mới chỉ có 4 DN nước mắm Phú Quốc xuất khẩu sang EU và một số nước châu Á với khoảng 10%-12% tổng sản lượng.
Ngoài nước đã vậy, trong nước, các DN sản xuất được cấp chứng nhận bảo hộ CDĐL Phú Quốc cũng gặp khó. Hiện tại, có chưa đầy 20% nước mắm chính hiệu Phú Quốc được bày bán trên thị trường và hơn 80% còn lại là nước mắm Phú Quốc nhái (không sản xuất, đóng chai tại Phú Quốc).
Bà Hồ Kim Liên, Giám đốc Doanh nghiệp nước mắm Khải Hoàn (một trong 70 DN được cấp CDĐL Phú Quốc), cho biết, số nước mắm đạt CDĐL rất ít, chiếm 50% tổng sản lượng nước mắm Phú Quốc và chỉ 5% nước mắm chính hiệu Phú Quốc được đóng chai tại nơi này.
Theo số liệu từ Hội Nước mắm Phú Quốc, hiện tại, huyện đảo Phú Quốc có gần 100 DN sản xuất nước mắm với sản lượng 20 - 25 triệu lít/năm. Nhưng điều đáng nói là hơn 80% lượng nước mắm sản xuất tại đây được bán làm nguyên liệu cho các DN, cơ sở nước mắm khác trong cả nước.
Một trong những lý do khiến nhà sản xuất chấp nhận bán thô vì nước mắm đóng chai tại Phú Quốc có giá cao hơn nhiều so với nước mắm Phú Quốc đóng chai tại nơi khác. Theo các DN sản xuất nước mắm Phú Quốc, nước mắm được chế biến từ 2 nguyên liệu là cá cơm và muối.

Xây dựng thương hiệu chung
Thế nhưng, khi bán cho các DN trung gian sẽ được pha chế thêm nước và phụ liệu rồi đóng chai. Đây chính là khâu dễ làm suy giảm chất lượng và ảnh hưởng nhiều đến thương hiệu nước mắm Phú Quốc.
Không thể phủ nhận, với chứng nhận bảo hộ CDĐL trong nước và châu Âu, nước mắm Phú Quốc sẽ có nhiều cơ hội để mở rộng thị trường. Bà Nguyễn Thị Kim Dung, Phó giám đốc Công ty Nước mắm Thanh Hà, cho biết, trước đây, sản phẩm của Công ty chủ yếu tiêu thụ nội địa nhưng sau khi có CDĐL nước mắm Thanh Hà đã xuất khẩu sang châu Âu với mức tăng trưởng 10 - 12%/tháng.
Bên cạnh đó, những thị trường khó tính như Nhật Bản cũng đã tiếp nhận nước mắm Phú Quốc. Thế nhưng, trên thực tế, dù đã 13 năm nước mắm Phú Quốc được bảo hộ CDĐL ở Việt Nam và 2 năm được bảo hộ tại châu Âu nhưng rất ít người biết được về bảo hộ này và việc xâm phạm bảo hộ CDĐL xảy ra tràn lan.
Trước mắt, để giải quyết tình trạng nước mắm Phú Quốc nhái, Bộ Công Thương, UBND tỉnh Kiên Giang cùng với Phái đoàn EU tại Việt Nam đã tổ chức tuyên truyền, tăng cường kiểm tra kiểm soát việc sử dụng CDĐL của sản phẩm này nhằm bảo vệ thương hiệu nước mắm của tỉnh Kiên Giang.
Trong đó, "liên minh" này đã tổ chức các tuần lễ truyền thông CDĐL Phú Quốc cho nước mắm Phú Quốc tại một vài tỉnh, thành. Trước ngày 30/7, tất cả các sản phẩm CDĐL đưa ra thị trường phải sử dụng nhãn mác mới về CDĐL. Từ ngày 1/8 sẽ kiểm tra việc thực hiện này và mức phạt các hành vi xâm phạm bảo hộ CDĐL có thể lên đến 500 triệu đồng, trường hợp nghiêm trọng sẽ truy tố hình sự.
Ông Simon Morton, cho biết, ngoài những chiến dịch truyền thông nâng cao nhận thức sản phẩm nước mắm Phú Quốc có CDĐL tại Việt Nam, Phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam sẽ tổ chức xúc tiến thương mại và đầu tư ở ba thành phố lớn tại châu Âu trong thời gian tới. Chương trình sẽ lồng ghép để quảng bá thương hiệu nước mắm Phú Quốc tại châu Âu.
Ông Huỳnh Quang Hưng, Phó chủ tịch UBND huyện Phú Quốc, cho biết, hiện Phú Quốc đã có đường bay thẳng từ Nga. Đây là điểm thuận lợi để quảng bá và xuất khẩu nước mắm Phú Quốc trong thời gian tới.
Hiện Phú Quốc đang rà soát lại quy hoạch, xây dựng khu sản xuất nước mắm tập trung tại Phú Quốc. Đây không chỉ là làng nghề sản xuất, cung cấp nước mắm Phú Quốc mà còn là một điểm đến trong các tour du lịch Phú Quốc.

Chia sẻ cùng bạn tin tức: DN dệt may: Chiến lược “Trung Quốc + 1”

“Tại Garmex Sài Gòn, phải tốn khá nhiều công sức chúng tôi mới thuyết phục một khách hàng Hoa Kỳ mua nguyên liệu nội địa thay cho Trung Quốc nên từ năm 2012 tới giờ, trung bình mỗi năm khách hàng này lấy khoảng 1 triệu m vải nỉ tại VN, dù chẳng đáng là bao nhưng đó cũng điểm khởi đầu. Chỉ đáng buồn là mua của DN vốn FDI tại VN chứ các DN nội vẫn chưa sản xuất được mặt hàng này” - vị này băn khoăn.
Xu hướng này không chỉ bắt nguồn từ hành động ngang ngược của Trung Quốc ở biển Đông, mà còn bởi Hiệp định Đối tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) và lợi ích cho chính các DN VN, trong tương quan với Trung Quốc.
DN dệt may VN đang cố gắng giảm lệ thuộc vào nguyên liệu từ Trung Quốc
Khó khăn trước mắt
Là một trong số 12 quốc gia tham gia đàm phán TPP, VN sẽ hưởng rất nhiều lợi ích khi tham gia vào khu vực thương mại tự do này bởi đây là khu vực hơn 800 triệu dân, chiếm 30% kim ngạch thương mại toàn cầu và gần 40% sản lượng kinh tế thế giới. Đặc biệt, mức thuế xuất khẩu cho hàng dệt may VN sẽ về 0% và như thế, chúng ta sẽ đứng trước cơ hội lớn để mở rộng thị phần đến các nước thuộc TPP, trong đó có Mỹ. Tuy nhiên, nhiều khả năng các DN dệt may VN sẽ không được hưởng mức thuế 0% nếu vẫn phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu của Trung Quốc.

Cty Garmex Sài Gòn hiện gần như nhập toàn bộ nguyên liệu từ bên ngoài. Ông Lê Quang Hùng - Chủ tịch HĐQT Cty cho hay: Ý tưởng “Trung Quốc + 1” là đúng đắn nhưng DN VN có làm được hay không không hề đơn giản vì cuối cùng vẫn là giá thành sản phẩm. Ngay cả Ấn Độ vốn được coi là công xưởng thế giới nhưng giá thành vẫn cao hơn 1,5 lần so với Trung Quốc, các nước khác như Hàn Quốc, Nhật Bản giá cao gấp 2 lần Trung Quốc thì các DN trong nước dù có chấp nhận thị trường mới cũng khó bán được sản phẩm.Lý do vì Trung Quốc không được vào TPP, nên VN nhập nguyên liệu quá nhiều từ Trung Quốc sẽ không được hưởng ưu đãi thuế từ TPP. Nghĩa là, VN buộc phải nội địa hóa 60% nguồn nguyên liệu, hoặc mua nguyên liệu của các nước trong nhóm TPP. Trong khi đó, phần lớn DN dệt may VN lại nhập khẩu gần 70% nguyên liệu từ Trung Quốc.
“Tại Garmex Sài Gòn, phải tốn khá nhiều công sức chúng tôi mới thuyết phục một khách hàng Hoa Kỳ mua nguyên liệu nội địa thay cho Trung Quốc nên từ năm 2012 tới giờ, trung bình mỗi năm khách hàng này lấy khoảng 1 triệu m vải nỉ tại VN, dù chẳng đáng là bao nhưng đó cũng điểm khởi đầu. Chỉ đáng buồn là mua của DN vốn FDI tại VN chứ các DN nội vẫn chưa sản xuất được mặt hàng này” - vị này băn khoăn.
Ổn định lâu dài
Theo các chuyên gia, giai đoạn đầu khi VN chưa chủ động được ngành công nghiệp phụ trợ thì việc tìm một thị trường mới thay thế như cách làm của Cty Garmex Sài Gòn là khả quan. Tuy nhiên, về lâu dài, VN cần chủ động xây dựng ngành công nghiệp phụ trợ đủ mạnh để đáp ứng nhu cầu của ngành dệt may - ngành trọng điểm đứng thứ 2 về kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tất nhiên, công cuộc này chắc chắn không đơn giản khi nhìn vào quá trình chủ động nguyên liệu của một DN - Agtex 28.
Cách đây 1 năm, Cty đã liên doanh với Tập đoàn Sotoh (Nhật Bản) đầu tư 100 tỷ đồng để thành lập nhà máy sản xuất vải len có công suất 5 triệu m vải len và pha len vào năm 2015 (phía Nhật bao tiêu 80%). Hiện nhà máy đã đi vào hoạt động và trong năm nay đã cung cấp được 400.000m vải len.
Theo tính toán của ông Nguyễn Văn Cần, trưởng phòng nghiên cứu và phát triển Agtex 2: “Hiện mỗi năm VN phải nhập hoàn toàn khoảng 15 triệu m vải len để sản xuất Veston xuất khẩu, thì riêng Agtex 28 đã cung ứng gần 10% cho thị trường nội địa. Đồng thời, Agtex 28 cũng đã đầu tư máy móc, mở rộng quy mô nhà máy sản xuất sợi lên 4.000 tấn sợi vào năm 2015, vừa đáp ứng cho sản xuất của TCty vừa cung cấp cho nội địa”.
Tuy nhiên, theo ông Cần: “Để xây dựng nhà máy sản xuất vải đạt công suất 5 triệu m/năm, ít nhất Agtex 28 phải tốn 100 tỷ đồng (Cty góp bằng mặt bằng, nhân công, chi phí sản xuất), đối tác nước ngoài góp bằng máy móc thiết bị, chuyên gia điều hành. Trong đó, riêng chi phí đầu tư cho xử lý nước thải chiếm khoảng 1/3 toàn bộ chi phí đầu tư nhà máy”.
Như vậy, có thể thấy những DN ít vốn sẽ không đủ năng lực để đầu tư vào phát triển nguyên liệu. Điều đó, đòi hỏi Nhà nước phải có cơ chế hỗ trợ các DN trong lĩnh vực này như chính sách ưu đãi về lãi suất, vốn vay, đất đai...
Thực tế, TP HCM cũng đã có chính sách ưu đãi cho DN dệt may để vừa chủ động vừa khai thác lợi thế nếu TPP được ký kết , nhưng điều đáng tiếc là chính sách ưu đãi chỉ để thu hút đầu tư nước ngoài chứ không dành cho DN trong nước.